Tải goPet 119 về máy : Tại đây
Quyển 1: Thành Cổ Tinh Tuyệt
Chương 3: Ngôi mộ trong núi 16
Tuy gọi là Nội Mông, nhưng kỳ
thực chỗ này cách Hắc Long Giang không xa, gần tiếp giáp với biên giới Ngoại
Mông rồi. Cư dân nơi đây phần lớn là người Hán. chỉ có một số ít là người Mãn,
người Mông. Đội thanh niên chúng tôi tổng cộng sáu người, bốn nam hai nữ, vừa đến
nơi thì ai nấy đều trơ mắt ra, chung quanh chỉ có những dãy núi nhấp nhô trải
dài muôn dặm, những cánh rừng nguyên sinh ngút mắt bạt ngàn, rời khỏi thôn tầm
chục dặm thì chẳng còn thấy bất kỳ bóng người nào nữa. Nơi đây vốn không thông
ra đường cái, thế nên đừng nhắc tới việc mắc điện, ở đây có thắp cây đèn dầu
cũng đã là đãi ngộ dành cho cán bộ, còn phòng ai có được chiếc đèn pin thì chẳng
khác gì dinh tổng thống, người sống trong thành phố hoàn toàn không thể nào ngờ
đến được. Lúc ấy, chúng tôi còn nghĩ khắp mọi miền tổ quốc nơi đâu cũng có nhà
cao tiệm lớn, đèn điện điện thoại sử dụng tha hồ nữa cơ. Có điều lúc ấy cũng thấy
rất mới mẻ, bởi xưa nay nào ai đã thấy dãy núi nào sừng sững đến vậy đâu, huống
hồ còn lần đầu tiên được nếm bao món đặc sản miền rừng núi nữa. Núi non chung
quanh sản vật tương đối dồi dào, cá thì đầy dưới sông, chẳng lo không có thứ
ăn. Sau này khi về thành phố, nghe bọn bạn đi Thiểm Tây kể mới thấy chúng nó cực
khổ thế nào, cả mấy năm trời có ăn được bữa nào ra hồn đâu. Công việc của thanh
niên trí thức không nặng lắm, bởi nơi đây “gần núi nhiều củi đốt, kề sông lắm
cá ăn” nên việc đồng áng không vất vả quá. Có điều, buổi tối mùa hè, chúng tôi
phải lần lượt thay nhau đi trông hoa màu ngoài ruộng. Vì lo thú rừng phá ruộng,
cho nên mỗi tối phải có hai người ngủ ngoài đồng để canh chừng. Đồng ruộng nơi
đây không phải là những dải xanh mướt, thẳng cánh cò bay như đồng bằng Hoa Bắc,
mà thường thì chỗ này một khoảnh, chỗ kia một khoảnh, tuỳ chỗ nào bằng phẳng là
xới ruộng chỗ đó luôn, cho nên buổi tối phải ra ngoài đi vòng vòng để canh gác.
Đêm hôm ấy đến lượt nhóm tôi và Tuyền béo, cậu ta ngủ trong lều, còn tôi ra
ngoài lượn một vòng, cũng thấy chẳng có gì, bèn về lều đánh một giấc cho xong.
Quãng về gần tới lều, bỗng dưng tôi thấy có cái bóng trắng tròn tròn cách lều cỏ
không xa, bèn dụi mắt nhìn cho thật kỹ, chắc chắn không phải tại hoa mắt rồi,
nhưng trời tối quá nên rốt cuộc chẳng thể nhìn rõ được xem là thứ gì. Hồi ấy
tôi không tin có ma, đoán là có con gì đó, bèn nhặt một cây gậy định xua nó đi.
Một đám trắng loá giữa màn đêm tối mịt, lại còn khẽ dật dờ đung đưa nữa, rốt cuộc
là thứ gì đây? “Thứ đó” cũng không giống động vật, nhưng nếu không phải là động
vật thì sao nó lại chuyển động được nhỉ? Tôi tuy không sợ ma quỷ, nhưng khi đối
mặt với thứ mình không biết là cái gì, thì nói cho cùng vẫn có tâm lý dè dặt,
không dám vung gậy đánh thẳng tới. Cây gậy tôi đang cầm trong tay, thực ra là một
cành cây tiện tay lượm được dưới đất mà thôi, tôi lấy cành cây chọc nhẹ vào đám
trắng mờ ảo kia, cảm giác rất mềm... đột nhiên, trong bóng tối mờ mịt tôi nghe
thấy tiếng Tuyền béo gắt lên: “Này...làm gì thế, Hồ Bát Nhất? Sao lại chọc gậy
vào mông tôi thế?”. Một phen hú vía, hoá ra là Tuyền béo, tại sáng ăn bẩn nên nửa
đêm đau bụng, ngồi chồm hỗm ở đó mà đi ngoài, trong đêm cái mông trắng hếu của
hắn trông thật bắt mắt. Sáng sớm hôm sau, Tuyền béo cứ nằng nặc bắt đền tôi, một
mực bảo tối qua tôi khiến hắn sợ phát khiếp, làm não hắn chết đến hàng triệu tế
bào. Tôi bảo rằng: “Não cậu có nhiều tế bào thế cơ à? Cả tớ lẫn cậu đều nghèo
xơ nghèo xác, nhận chỉ thị tối cao của nhà nước tới nông thôn tiếp nhận học tập
những điều vô cùng cần thiết từ giai cấp trung nông nghèo khổ,tớ lấy thứ gì để
đền cậu đây? Tớ đã nói với cậu từ trước rồi, với tư cách là người chiến hữu
cách mạng thân thiết của cậu, tớ khẳng định toàn bộ tư trang của tớ chỉ còn lại
mỗi chiếc quần đang mặc này thôi, chắc cậu không bắt tớ phải tụt quần ra đền đấy
chứ?” Tuyền béo cười nắc nẻ, nói: “Không cần phải thế, hôm trước tớ phát hiện
trong khu rừng Đoàn Sơn có một tổ ong cực lớn, bọn mình đi chọc nó xuống, lấy
ít mật uống cho đã, phần còn lại đem về đổi cho bố Yến Tử lấy thịt thỏ mà ăn.”
Yến Tử là tên của một cô gái, bố cô là thợ săn già có tiếng trong làng, tôi và
Tuyền béo đều sống nhờ trong nhà họ. Hai cha con cô thường vào rừng đi săn, dăm
hôm lại mời chúng tôi ăn thịt thú rừng, nhưng ăn mãi đồ ăn ngon nhà người ta,
lâu ngày bọn tôi cũng áy náy,ngặt nỗi hai thằng tôi thực sự quá nghèo, cũng chẳng
có gì mà mời lại hai cha con Yến Tử. Tuyền béo phát hiện được cái tổ ong, bọn
tôi liền quyết định kiếm ít mật về đem biếu hai cha con. Hai thằng tôi tính sốt
sắng, nói làm là làm luôn, hồi còn ở thành phố, tôi và Tuyền béo đã là chúa nghịch
ngợm trong toàn quân khu, giờ có chọc cái tổ ong thì nhằm nhò gì, mấy trò nghịch
hơn gấp chục lần, bọn tôi cũng giỡn như cơm bữa. Tôi sợ lạc đường, bèn tìm mượn
con chó săn của Yến Tử, con chó này chỉ nhỡ nhỡ, được Yến Tử chăm nuôi từ nhỏ.
Cô đặt tên nó là Dẻ Vàng, tại nó chưa lớn nên cũng không nỡ đem theo đi săn, giờ
thấy chúng tôi bảo lên núi chơi một chốc, Yến Tử liền cho dắt đi ngay. Tính đường
chim bay, rặng Đoàn Sơn cách làng chúng tôi ở cũng không xa lắm, nhưng bởi
không có đường đi thẳng nên chúng tôi phải trèo đèo lội suối một hồi lâu mới tới.
Khu rừng này rất rộng lớn, người trong làng từng cảnh báo chúng tôi không nên
vào đây, nghe đồn trong rừng thường có gấu người xuất hiện. Chúng tôi cũng từng
gặp một người đàn ông chỉ có nửa khuôn mặt trong làng, nghe đầu hồi nhỏ anh ta
vào rừng gặp phải gấu người, may mà bố Yến Tử chạy đến kịp thời, nổ súng đuổi
con gấu đi mới cứu được. Nhưng anh ta vẫn bị con gấu liếm cho một phát vào mặt,
trên cái lưỡi nhơ nhám của con gấu mọc chi chít những gai thịt, chỉ cần liếm một
cái là xé phăng đi một mảng thịt lớn, đến giờ, nửa mặt trái của người đàn ông ấy
đã không còn tai mắt, cả mồm mũi cũng đều méo xệch, hơn bốn mươi tuổi đầu mà chẳng
lấy được vợ, người già trong làng mỗi khi nhắc đến chuyện của anh thì đều rơm rớm
nước mắt. Chúng tôi tuy to gan, nhưng cũng không dám mạo áy náy,ngặt nỗi hai thằng
tôi thực sự quá nghèo, cũng chẳng có gì mà mời lại hai cha con Yến Tử. Tuyền
béo phát hiện được cái tổ ong, bọn tôi liền quyết định kiếm ít mật về đem biếu
hai cha con. Hai thằng tôi tính sốt sắng, nói làm là làm luôn, hồi còn ở thành
phố, tôi và Tuyền béo đã là chúa nghịch ngợm trong toàn quân khu, giờ có chọc
cái tổ ong thì nhằm nhò gì, mấy trò nghịch hơn gấp chục lần, bọn tôi cũng giỡn
như cơm bữa. Tôi sợ lạc đường, bèn tìm mượn con chó săn của Yến Tử, con chó này
chỉ nhỡ nhỡ, được Yến Tử chăm nuôi từ nhỏ. Cô đặt tên nó là Dẻ Vàng, tại nó
chưa lớn nên cũng không nỡ đem theo đi săn, giờ thấy chúng tôi bảo lên núi chơi
một chốc, Yến Tử liền cho dắt đi ngay. Tính đường chim bay, rặng Đoàn Sơn cách
làng chúng tôi ở cũng không xa lắm, nhưng bởi không có đường đi thẳng nên chúng
tôi phải trèo đèo lội suối một hồi lâu mới tới. Khu rừng này rất rộng lớn, người
trong làng từng cảnh báo chúng tôi không nên vào đây, nghe đồn trong rừng thường
có gấu người xuất hiện. Chúng tôi cũng từng gặp một người đàn ông chỉ có nửa
khuôn mặt trong làng, nghe đầu hồi nhỏ anh ta vào rừng gặp phải gấu người, may
mà bố Yến Tử chạy đến kịp thời, nổ súng đuổi con gấu đi mới cứu được. Nhưng anh
ta vẫn bị con gấu liếm cho một phát vào mặt, trên cái lưỡi nhơ nhám của con gấu
mọc chi chít những gai thịt, chỉ cần liếm một cái là xé phăng đi một mảng thịt
lớn, đến giờ, nửa mặt trái của người đàn ông ấy đã không còn tai mắt, cả mồm
mũi cũng đều méo xệch, hơn bốn mươi tuổi đầu mà chẳng lấy được vợ, người già
trong làng mỗi khi nhắc đến chuyện của anh thì đều rơm rớm nước mắt. Chúng tôi
tuy to gan, nhưng cũng không dám mạo áy náy,ngặt nỗi hai thằng tôi thực sự quá
nghèo, cũng chẳng có gì mà mời lại hai cha con Yến Tử. Tuyền béo phát hiện được
cái tổ ong, bọn tôi liền quyết định kiếm ít mật về đem biếu hai cha con. Hai thằng
tôi tính sốt sắng, nói làm là làm luôn, hồi còn ở thành phố, tôi và Tuyền béo
đã là chúa nghịch ngợm trong toàn quân khu, giờ có chọc cái tổ ong thì nhằm nhò
gì, mấy trò nghịch hơn gấp chục lần, bọn tôi cũng giỡn như cơm bữa. Tôi sợ lạc
đường, bèn tìm mượn con chó săn của Yến Tử, con chó này chỉ nhỡ nhỡ, được Yến Tử
chăm nuôi từ nhỏ. Cô đặt tên nó là Dẻ Vàng, tại nó chưa lớn nên cũng không nỡ
đem theo đi săn, giờ thấy chúng tôi bảo lên núi chơi một chốc, Yến Tử liền cho
dắt đi ngay. Tính đường chim bay, rặng Đoàn Sơn cách làng chúng tôi ở cũng
không xa lắm, nhưng bởi không có đường đi thẳng nên chúng tôi phải trèo đèo lội
suối một hồi lâu mới tới. Khu rừng này rất rộng lớn, người trong làng từng cảnh
báo chúng tôi không nên vào đây, nghe đồn trong rừng thường có gấu người xuất
hiện. Chúng tôi cũng từng gặp một người đàn ông chỉ có nửa khuôn mặt trong
làng, nghe đầu hồi nhỏ anh ta vào rừng gặp phải gấu người, may mà bố Yến Tử chạy
đến kịp thời, nổ súng đuổi con gấu đi mới cứu được. Nhưng anh ta vẫn bị con gấu
liếm cho một phát vào mặt, trên cái lưỡi nhơ nhám của con gấu mọc chi chít những
gai thịt, chỉ cần liếm một cái là xé phăng đi một mảng thịt lớn, đến giờ, nửa mặt
trái của người đàn ông ấy đã không còn tai mắt, cả mồm mũi cũng đều méo xệch,
hơn bốn mươi tuổi đầu mà chẳng lấy được vợ, người già trong làng mỗi khi nhắc đến
chuyện của anh thì đều rơm rớm nước mắt. Chúng tôi tuy to gan, nhưng cũng không
dám mạo ong con sặc nước, con sặc khói, tình hình đã không còn nguy hiểm nữa.
Thời tiết khi ấy tuy là giữa hè, nhưng sông suối trong rừng núi lại vẫn rất lạnh,
khắp người tôi cứ run cầm cập, khó khăn lắm mới bò được lên bờ, rồi nằm trên dải
đá hít thở thật sâu, đón những vạt nắng ấm áp sưởi ấm thân mình, cảm giác dễ chịu
khôn tả. Chẳng lâu sau Tuyền béo cũng không thể chịu nổi, bèn run rẩy bò lên, mới
bò được một nửa, đột nhiên hắn kêu á một tiếng, cánh tay vung phắt lên, chẳng
hiểu vì sao trên tay đã bị cứa rách một đường dài, máu chảy lênh láng. Tôi vội
chạy xuống đỡ Tuyền béo, cậu ta vừa bóp chặt vết thương, vừa nói: “Cẩn thận đấy!
Hình như dưới suối có cái bát vỡ, cứa đau chết được”. Chung quanh vốn không có
người ở, sao lại có bát vỡ ở đây, tôi bỗng nổi trí tò mò, liền cởi phăng quần
áo để mình trần lặn xuống suối mò tìm, ở chỗ Tuyền béo bị cứa chảy máu, tôi mò
được nửa cái bát sứ, nhìn kỹ kiểu dáng cùng với hoa văn xanh lam, cũng có mấy
phần giống với đồ sứ hoa xanh thời Bắc Tống khi trước nội tôi sưu tầm. Nhưng
tranh chữ, đồ cổ của ông tôi, hồi đấu tố đều bị bọn Hồng vệ binh đập nát cả rồi,
chẳng ngờ ở chốn thâm sơn cùng cốc này lại có thể nhìn thấy mảnh vụn của thứ đồ
cổ này, cảm giác cũng thân thiết ra phết, nhưng suy cho cùng chúng cũng chẳng
có giá trị gì với tôi cả, nghĩ đoạn tôi liền vung tay ném văng mảnh bát vào rừng.
Tuyền béo cũng cởi hết quần áo ướt, băng qua loa vết thương rồi lại nhảy xuống
suối. Chúng tôi tắm xong, liền đem quần áo giày tất phơi lên dải đá sỏi trên bờ,
tôi huýt một tiếng sáo dài gọi con Dẻ Vàng quay lại. ong con sặc nước, con sặc
khói, tình hình đã không còn nguy hiểm nữa. Thời tiết khi ấy tuy là giữa hè,
nhưng sông suối trong rừng núi lại vẫn rất lạnh, khắp người tôi cứ run cầm cập,
khó khăn lắm mới bò được lên bờ, rồi nằm trên dải đá hít thở thật sâu, đón những
vạt nắng ấm áp sưởi ấm thân mình, cảm giác dễ chịu khôn tả. Chẳng lâu sau Tuyền
béo cũng không thể chịu nổi, bèn run rẩy bò lên, mới bò được một nửa, đột nhiên
hắn kêu á một tiếng, cánh tay vung phắt lên, chẳng hiểu vì sao trên tay đã bị cứa
rách một đường dài, máu chảy lênh láng. Tôi vội chạy xuống đỡ Tuyền béo, cậu ta
vừa bóp chặt vết thương, vừa nói: “Cẩn thận đấy! Hình như dưới suối có cái bát
vỡ, cứa đau chết được”. Chung quanh vốn không có người ở, sao lại có bát vỡ ở
đây, tôi bỗng nổi trí tò mò, liền cởi phăng quần áo để mình trần lặn xuống suối
mò tìm, ở chỗ Tuyền béo bị cứa chảy máu, tôi mò được nửa cái bát sứ, nhìn kỹ kiểu
dáng cùng với hoa văn xanh lam, cũng có mấy phần giống với đồ sứ hoa xanh thời
Bắc Tống khi trước nội tôi sưu tầm. Nhưng tranh chữ, đồ cổ của ông tôi, hồi đấu
tố đều bị bọn Hồng vệ binh đập nát cả rồi, chẳng ngờ ở chốn thâm sơn cùng cốc
này lại có thể nhìn thấy mảnh vụn của thứ đồ cổ này, cảm giác cũng thân thiết
ra phết, nhưng suy cho cùng chúng cũng chẳng có giá trị gì với tôi cả, nghĩ đoạn
tôi liền vung tay ném văng mảnh bát vào rừng. Tuyền béo cũng cởi hết quần áo ướt,
băng qua loa vết thương rồi lại nhảy xuống suối. Chúng tôi tắm xong, liền đem
quần áo giày tất phơi lên dải đá sỏi trên bờ, tôi huýt một tiếng sáo dài gọi
con Dẻ Vàng quay lại. “Trời bao la, đất bao la... đâu bằng lòng quyết tâm của
nhân dân ta...Thân thay mẹ, thân thay cha...nào thân bằng tình nghĩa Đảng ta.”
Thật đúng là “roi quất ngựa chồn chuông reo múa, hát vang một khúc tiến quân về”.
Điểm không hài hoà duy nhất chính là tiếng sủa phấn khích của con Dẻ Vàng xen
trong tiếng hát hào hùng của chúng tôi, điều này khiến cho tôi có cảm giác mình
giống bọn giặc Nhật đổ bộ vào thôn làng trong phim vậy. Về tới thôn, thấy người
trong làng vơi đi quá bán, tôi liền hỏi Yến Tử: “Yến Tử! Bố em với mọi người đi
đâu cả vậy?” Yến Tử vừa giúp chúng tôi nhấc tổ ong xuống, vừa trả lời: “Sông
Chakanha có lũ, cây gỗ trong lâm trường đều bị lụt cả, buổi trưa người trong
làng đều chạy tới giúp khuân gỗ, đồng chí bí thư chi bộ bảo em nhắc các anh
trông hoa màu cho cẩn thận, đừng có gây vạ, bọn họ phải bảy tám hôm nữa mới về
được.” Tôi chúa ghét nghe ai bảo mình không được gây hoạ, cứ làm như tôi sinh
ra là để đi khắp nơi reo rắc tai hoạ không bằng, nghe vậy tôi liền nói với Yến
Tử: “Đồng chí bí thư uống rượu say nói lẫn rồi! Bọn anh có gây vạ gì đâu? Bọn
anh đều là cháu ngoan của Mao chủ tịch mà!”. Yến Tử cười bảo: “Có thật là mấy
anh không gây vạ gì không? Từ sau khi đám thanh niên trí thức mấy anh về đây,
gà mái cả làng này đều bị nạt cho không con nào đẻ được trứng nữa rồi đấy.” Hai
anh bạn cùng đoàn với tôi cũng đã ra lâm trường, chỉ còn lại tôi, Tuyền béo và
hai cô gái nữa, hai chúng tôi chạy đi chơi nên không bị gọi đến lâm trường
khuân gỗ, nghĩ cũng may thật! Bọn tôi đổ mật ong vào bình, cả thảy cũng được
hơn mười bình đầy, Yến Tử bảo buồng ong thừa lại có thể nấu ăn, bữa tối sẽ nấu
cho chúng tôi ăn món thịt nai xào tổ ong. Vừa nhắc đến ăn, Tuyền béo lại sướng
tít cả mắt, bảo rằng hôm nay bọn mình có khác nào ăn Tết, chiều vừa ăn thịt thỏ
nướng, tối lại được ăn thịt nai xào tổ ong, mình chảy cả nướng miếng ra rồi
này. Yến Tử hỏi chúng tôi nướng thịt thỏ ở đâu. Tôi kể cho cô nghe đầu đuôi câu
chuyện. Yến Tử nghe xong thì thốt lên: “Ôi trời ạ, các anh đừng có làm liều thế
chứ! Nướng thịt thỏ ở bìa rừng, mùi thịt thơm như thế dụ gấu người ra thì sao?”
Bọn tôi nghe Yến Tử nói vậy mới sực nghĩ lại, đúng nguy hiểm thật, may mà không
sao, có lẽ tại hôm nay con gấu đang ngủ cho nên không đánh hơi thấy mùi thịt nướng.
Tôi vừa giúp Yến Tử gầy lò, vừa kể chuyện Tuyền béo bị mảnh bát vỡ ở suối cứa
vào tay, chẳng biết ở nơi rừng hoang núi hẻm ấy cớ gì lại có bát sứ hoa xanh thời
Tống nữa? Yến Tử nghe vậy, mới bảo rằng: “Có gì lạ đâu, làng mình mỗi khi có ai
lấy chồng, nhà nào nhà nấy cũng đều có đến mấy chiếc bình đựng làm của hồi môn,
mà những thứ ấy đều vớt ở dưới suối lên cả.” Tôi càng nghe càng thấy lạ, dưới
suối lại vớt được đồ cổ ư? Thấy tôi ngơ ngác, Yến Tử liền với tay vào gầm giường
lôi ra hai chiếc bình sứ chỉ cho tôi xem: “Không phải dưới suối tự mọc ra đâu,
đều là từ trên thượng du xối xuống đấy. Gần làng mình có mấy con sông đều bắt
nguồn từ núi Tim Trâu ở khe Lạt Ma, nghe người già kể núi ấy có mộ của bà thái
hậu nước Kim hay nước Liêu nào ấy, đồ tuỳ táng bên trong đều cũ rích cả rồi, có
nhiều người muốn đi tìm cái mộ ấy lắm, nhưng chẳng phải không tìm thấy thì cũng
là vào rồi mà không biết lối ra. Khu rừng trong khe Lạt Ma rậm rạp lắm, bố em
còn kể từng thấy quanh khu ấy có người rừng xuất hiện, có người còn nói trong
núi Tim Trâu có ma, bao năm nay chẳng có ai dám vào đấy đâu.” Trong lúc chúng
tôi nói chuyện, màn đêm đã buông xuống từ lúc nào không biết, Yến Tử làm cơm
cũng đã hòm hòm, Tuyền béo liền đi gọi hai cô bạn kia đến ăn cơm, nhưng vừa đi
được một lúc, cậu ta và cô tên là Vương Quyên đã hớt hơ hớt hải chạy về. Tôi vội
hỏi xem có chuyện gì, Vương Quyên thở hổn hển một hồi mới nói rõ, hoá ra cô bạn
tên Điền Hiểu Manh ở cùng Vương Quyên nhận được thư nhà, trong thư viết mẹ cô bị
hen suyễn phải nằm viện, bệnh tình xem ra khá trầm trọng. Điền Hiểu Manh nghe
người ta bảo trong khe Lạt Ma có quả Bồ Tát chữa bệnh hen suyễn rất hiệu nghiệm,
bèn một mình vào rừng tìm, đã đi từ sáng sớm mà mãi tớ giờ vẫn chưa thấy về.
Tôi nghe mà gân xanh giật lên bần bật bên hai thái dương, Điền Hiểu Manh này
cũng liều mạng thật, chỗ đó là rừng nguyên sinh, ngay cả thợ săn có kinh nghiệm
trong làng còn chẳng dám tuỳ tiện đi vào, làm sao mà cô ta lại đi một mình cơ
chứ. Vương Quyên khóc bảo rằng tại mình không ngăn Hiểu Manh được, rồi bảo mọi
người mau chóng đi tìm, kẻo có chuyện gì thì chẳng biết phải làm sao nữa. Nhưng
bấy giờ lực lượng lao động trong làng đều đến lâm trường cả rồi, chỉ còn hai
người già và trẻ nhỏ, xem ra chỉ còn mỗi tôi và Tuyền béo là đi được, Yến Tử
cũng dắt theo Dẻ Vàng và súng săn đi cùng chúng tôi, Vương Quyên ở lại trông
coi hoa màu. Trong rừng núi có chó thì chẳng sợ lạc đường, chúng tôi không dám
trễ nải, vội đốt đuốc dắt theo Dẻ Vàng phăm phăm vào rừng. Núi sâu rừng thẳm
căn bản không có đường nào đi được, tôi cũng thực chẳng hiểu nổi Điền Hiểu
Manh, con gái sao dám một thân một mình xông vào nơi thâm sơn cùng cốc này cơ
chứ, Tuyền béo bảo,có lẽ tại cô lo lắng quá nên không tỉnh táo, mẹ bệnh nặng ai
mà chẳng lo cơ chứ. Trời tối, lại phải nhờ Dẻ Vàng ngửi mùi lần vết, nhưng nó
chưa từng được huấn luyện bài bản bao giờ, nên cứ mất dấu suốt, thành ra lại phải
quay lại tìm lần nữa, vậy nên chúng tôi đi rất chậm, đoạn đường ngày thường chỉ
cần đi bốn năm tiếng, giờ ba chúng tôi phải đi suốt cả một đêm. Phía Đông trời
đã hửng sáng, ngọn gió sớm trong khu rừng già thổi qua làm chúng tôi nổi hết da
gà, không khí tươi mới của buổi sớm khiến tinh thần người ta phấn chấn, Yến Tử
chỉ tay về phía Tây nói: “Hai anh trông! Ngọn núi lớn kia chính là núi Tim Trâu
đấy.” Tôi với Tuyền béo liền nhìn theo hướng tay cô chỉ, trong dãy núi bao trùm
bởi biển rừng ngút ngát, sừng sững một ngọn núi khổng lồ hình thù quái dị, cả
ngọn núi hình dạng như một quả tim trâu,chín dòng thác trắng muốt như chín con
rồng ngọc cuồn cuộn chảy từ trên cao xuống, những đồ sứ mà dân làng nhặt được hẳn
là do những dòng thác này cuốn ra, xem chừng lăng mộ của Thái hậu nước Liêu có
lẽ ở trong núi, chỉ là xưa nay chẳng có ai tìm được lối vào mà thôi. Tôi trông
thấy dãy núi hùng vĩ ấy thì đột nhiên có một cảm giác rất lạ, thề có chủ tịch
Mao, dãy núi này hình như tôi đã thấy ở đâu đó. Ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng
tôi cũng sực nhớ ra đây chính là một đoạn chép trong cuốn tàn thư ông nội để lại
mà hằng ngày khi rảnh rỗi tôi vẫn thường mở ra xem. Nơi có bố cục sơn thuỷ này
chính là phong thủy tốt nhất để làm huyệt mộ, trước nhìn sông, sau tựa núi,
chín dòng thác tuôn trào như chín con rồng hút nước, chia ngọn núi thành hình
hoa sen nở rộ, đúng rồi, hình như bố cục này được gọi là “Cửu long trạo ngọc
liên” (Chín rồng trùm sen ngọc) thì phải. Chín dòng thác trên núi, nếu nhiều
hơn hay ít hơn một, hoặc lưu lượng nước không đủ lớn, đều không thể gọi là bố cục
“Cửu long trạo ngọc liên” được. Số chín là đơn vị lớn nhất, có hàm nghĩa “tối
thượng, chí tôn”, phát âm lại giống với chữ “cửu” là “lâu bền”, có ý “vĩnh cửu
trường tồn”, bởi thế tự cổ chí kim đều được coi là con số may mắn nhất. Ngoài
ra, nếu lượng nước không đủ lớn, thì cũng không thể gọi là “rồng” được, mà chỉ
có thể gọi là “rắn” mà thôi. Loại huyệt báu phong thủy này, còn có một tên
khác, gọi là “Lạc thần liễn”, trong sách có ghi, bố cục như vậy thích hợp nhất
là an táng đàn bà, nếu chôn đàn ông vào, thì gia tộc nhà ấy kể như xúi quẩy
muôn đời. Lúc ấy, đầu tôi lởn vởn một suy nghĩ, cuốn Thập lục tự âm dương phong
thuỷ bí thuật của nội tôi nào phải là sách phong kiến bậy bạ, nội dung sách
chép toàn là vật thực việc thực, trở về thế nào tôi cũng sẽ đọc lai cho kỹ càng
mới được. Có điều tôi không hề thấy cái thứ thuật phong thuỷ này có giá trị gì
cả, Trung Quốc tự xưa biết bao vị đế vương khanh tướng có ai chết mà lại chọn bừa
lấy một mảnh đất đem chôn đâu? Vậy sao triều đại vẫn đổi thay, dòng lịch sử hết
hưng thịnh rồi suy vong, lẽ nào do phần mộ tổ tiên mà quyết định được? Yến Tử
chỉ khe sâu phía trước núi Tim Trâu bảo: “Đây chính là khe Lạt Ma nổi tiếng,
nghe đồn trong đó có người rừng, mà đêm đến lại còn có ma nữa.” Tuyền béo đưa mắt
nhìn khu rừng nguyên sinh rậm rạp âm u, nhíu mày nói: “Hiểu Manh đi vào khe này
thảo nào chẳng lạc, chúng ta chỉ có ba người một con chó, muốn tìm cô nàng chắc
cũng không dễ đâu.” Tôi thấy hai người có vẻ nản lòng, bèn động viên: “Những
người theo chủ nghĩa duy vật Cộng sản không nên tin vào những điều ma quỷ, bất
kể là mà hay là người rừng, gặp phải tớ đây thì coi như vô phúc, tớ sẽ bắt sống
mấy con, đem về Bắc Kinh tặng Mao chủ tịch, nhất định người sẽ rất kinh ngạc
cho mà xem!” Tôi và Tuyền béo đều xuất thân trong gia đình quân nhân, trong máu
đã có sẵn phẩm chất gan lì chẳng sợ trời sợ đất, cậu ta nghe tôi nói thế, liền
lập tức phấn chấn tinh thần, cũng xắn quần áo tiến vào khe sâu. Chỉ còn Yến Tử
là lo lắng chưa yên, Yến Tử dẫu sao cũng là người bản địa, từ bé đã nghe vô số
câu chuyện đáng sợ về khe Lạt Ma,tự nhiên trong tâm trí cô hình thành một nỗi sợ
tiềm ẩn âu cũng là điều dễ hiểu. Có điều bây giờ cứu người quan trọng, cô cũng
đành gác lại nỗi lo sợ ấy mà đi theo chúng tôi. Ba chúng tôi ngồi ăn lót dạ
chút lương khô, kiểm tra lại đồ đạc chuẩn bị xuất phát, ba người có hai khẩu
súng, đều là của bố con Yến Tử, một khẩu là súng ba nòng, một khẩu là súng tự
chế của người Ngạc Luân Xuân, cả hai khẩu đều rất lạc hậu, toàn phải nhồi thuốc
rồi mới bắn được, bắn cự ly gần thì khả năng sát thương rất lớn, nhưng nếu bắn
mục tiêu ngoài ba mươi lăm mét trở ra, thì độ chuẩn xác và sức đi của đạn đều
không mấy đảm bảo, dùng bắn hươu bắn thỏ thì còn tạm ổn. Hồi tôi sáu tuổi đã được
bố dắt tới trường bắn chơi súng, các loại súng ngắn dài của Quân Giải phóng tôi
đều sử dụng thành thạo, nhưng loại súng săn nhồi Tuyền béo đưa mắt nhìn khu rừng
nguyên sinh rậm rạp âm u, nhíu mày nói: “Hiểu Manh đi vào khe này thảo nào chẳng
lạc, chúng ta chỉ có ba người một con chó, muốn tìm cô nàng chắc cũng không dễ
đâu.” Tôi thấy hai người có vẻ nản lòng, bèn động viên: “Những người theo chủ
nghĩa duy vật Cộng sản không nên tin vào những điều ma quỷ, bất kể là mà hay là
người rừng, gặp phải tớ đây thì coi như vô phúc, tớ sẽ bắt sống mấy con, đem về
Bắc Kinh tặng Mao chủ tịch, nhất định người sẽ rất kinh ngạc cho mà xem!” Tôi
và Tuyền béo đều xuất thân trong gia đình quân nhân, trong máu đã có sẵn phẩm
chất gan lì chẳng sợ trời sợ đất, cậu ta nghe tôi nói thế, liền lập tức phấn chấn
tinh thần, cũng xắn quần áo tiến vào khe sâu. Chỉ còn Yến Tử là lo lắng chưa
yên, Yến Tử dẫu sao cũng là người bản địa, từ bé đã nghe vô số câu chuyện đáng
sợ về khe Lạt Ma,tự nhiên trong tâm trí cô hình thành một nỗi sợ tiềm ẩn âu
cũng là điều dễ hiểu. Có điều bây giờ cứu người quan trọng, cô cũng đành gác lại
nỗi lo sợ ấy mà đi theo chúng tôi. Ba chúng tôi ngồi ăn lót dạ chút lương khô,
kiểm tra lại đồ đạc chuẩn bị xuất phát, ba người có hai khẩu súng, đều là của bố
con Yến Tử, một khẩu là súng ba nòng, một khẩu là súng tự chế của người Ngạc
Luân Xuân, cả hai khẩu đều rất lạc hậu, toàn phải nhồi thuốc rồi mới bắn được,
bắn cự ly gần thì khả năng sát thương rất lớn, nhưng nếu bắn mục tiêu ngoài ba
mươi lăm mét trở ra, thì độ chuẩn xác và sức đi của đạn đều không mấy đảm bảo,
dùng bắn hươu bắn thỏ thì còn tạm ổn. Hồi tôi sáu tuổi đã được bố dắt tới trường
bắn chơi súng, các loại súng ngắn dài của Quân Giải phóng tôi đều sử dụng thành
thạo, nhưng loại súng săn nhồi phu nhân mất rồi?” Chúng tôi đang nghỉ ngơi nói
chuyện phiếm, bỗng thấy Dẻ Vàng xông vào phía rừng cây rậm rạp sủa nhặng lên,mà
chó săn đều là những giống chó cực tốt, nếu không gặp chuyện gì nguy hiểm lắm,
chúng tuyệt đối không bao giờ sủa nhặng lên như thế. Tôi hỏi Yến Tử: “Con chó
làm sao thế? Có phải phát hiện ra thú rừng đúng không?” Yến Tử mặt mũi tái nhợt:
“Mau...Trèo mau lên cây! Có... có gấu người!” Tôi vừa nghe thấy hai tiếng “gấu
người” thì lập tức ba chân bốn cẳng trèo tót lên một cành cây to, cúi đầu nhìn
xuống, thấy Tiểu Yến Tử còn đang gắng sức đẩy mông Tuyền béo lên, cái cậu này vốn
không biết leo trèo, chỉ biết gắng gượng ôm lấy thân cây nhích dần lên từng tí
một. Thấy thế tôi lại vội tuột xuống, cùng Yến Tử đẩy cậu ta lên, nhọc nhằn lắm
cuối cùng Tuyền béo mới leo lên được một chạc cây to gần nhất. Cậu ta nằm sấp
ôm chặt lấy cành cây, mồ hôi nhễ nhại, nói vọng xuống: “Ôi khổ thân tôi...tổ sư
cái cây...cao thế không biết!”. Tiếng sủa của Dẻ Vàng càng lúc càng gấp, tôi với
Yến Tử chưa kịp trèo lên cây, thì từ trong bụi rậm một con gấu người khắp mình
đen trũi đã xông ra, con gấu thấy có người, lập tức phấn khích đứng thẳng hai
chân, gầm lên như sấm. Yến Tử đã đi theo cha đi săn trong núi nhiều năm, rất
nhiều kinh nghiệm, chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, ngay tức khắp giơ súng lên nhắm thẳng
vào con gấu bắn luôn một phát, chỉ nghe “đoàng” một tiếng, tia lửa bắn toé ra,
viên đạn đã trúng ngay bụng con gấu. Khoảng cách gần, vả lại vùng bụng gấu
chính là chố mềm yếu nhất, phát súng vừa rồi đã khoét ngay trên bụng con ác thú
một cái lỗ lớn, máu tươi và phèo ruột đều xổ cả ra. Con gấu bị thương, tức giận
vô cùng, liền lấy tay nhét đống phèo ruột vào trong bụng, điên cuồng lao về
phía Yến Tử, súng săn của cô không thể bắn liên tiếp, phía sau lại toàn cây cối
gai góc muốn chạy cũng không chạy đi đâu được, chỉ đành nhắm mắt chờ chết. Cứu
người là trên hết, tôi chẳng đắn đo gì thêm, vội vàng giương súng ngắm vào đầu
con gấu, nếu phát súng này mà trược thì coi như Yến Tử đi tong, nghĩ đến đây tay
tôi hơi run rẩy, vội lập tức nghiến răng bóp cò, một tiếng nổ “đùng” vang lên,
lực giật của cây súng Ngạc Luân Xuân khiến tôi ngồi phịch xuống đất, suýt lộn mấy
vòng, chẳng rõ do lực sát thương không đủ lớn hay tại tôi ngắm lệch, tuy viên đạn
đã trúng đầu con gấu nhưng chỉ khiến nó mù một mắt. Phát súng ấy tuy không chí
mạng, nhưng đã cứu được Yến Tử, con gấu bị chột một mắt, khắp mặt máu me đầm
đìa, hốc mắt hẵng còn lủng lẳng nửa con ngươi, con ác thú càng trở nên điên cuồng
dữ tợn, bỏ mặc Yến Tử ở đó mà lao thẳng về phía tôi. Lúc này, Dẻ Vàng từ phía
sau cắn mạnh vào chân con gấu, con gấu quay ngoắt lại định túm lấy Dẻ Vàng,
nhưng con chó rất cảnh giác, thấy đối thủ xoay mình, liền chạy tít ra xa, nhe
hàm răng nhọn hoắt lên thách thức với con gấu. Trong khoảnh khắc ấy, tôi với Yến
Tử vội tranh thủ chục giây quý báu, mỗi người leo ngay lên một cái cây. Gấu người
bị thương không nhẹ, ruột lòi cả ra ngoài, máu chảy đầm đìa, lại mù mất một mắt,
ở trong rừng này ngay cả hổ cũng phải sợ nó vài phần, xưa nay đã bao giờ chịu
thiệt đến thế đâu, muốn xông ra tóm con Dẻ Vàng, nhưng gấu thì chạy làm sao
nhanh bằng chiếc gai thịt bên bàn tay nó bấu chắc vào thân cây, cả cơ thể to lớn
mà nhún một cái đã lên được cả mét. Tôi chửi thầm trong bụng: “Tiên sư đứa nào
bảo ông gấu chó không biết trèo cây ấy nhỉ? Muốn chơi ông chắc!”. Xưa nay vào rừng,
thợ săn già vẫn thường dặn dò đám người trẻ: Thà đánh mãnh hổ, không chấp gấu
điên. Bởi loài gấu bị thương mà phát khùng lên thì sức phá hoại và sự tàn bạo
thật không ai có thể tưởng tượng ra được. Tôi sợ đến tái mặt, nào còn bụng dạ bỡn
cợt với Tuyền béo nữa, trong đầu chỉ rặt một suy tính tìm kế thoát thân. Lúc bấy
giờ Yến Tử liền nhắc tôi: “Mau...mau nhồi đạn! Bắn nốt con mắt còn lại của nó
mau!”. Tôi lúc ấy mới sực nhớ ra cây súng săn đeo sau lưng, vừa mắng mình vô
tích sự, vừa trèo thêm một quãng nữa lên phía ngọn cây, cởi bỏ dây lưng, thắt
vào một cành cây to đủ chịu trọng lượng cơ thể mình, sau đó một tay giữ chắc
cây súng để giữ trọng tâm, tay còn lại nhồi cả nửa số thuốc đựng trong ống sừng
trâu vào nòng súng. Con gấu trèo rõ nhanh, cách tôi mỗi lúc một gần, Yến Tử và
Tuyền béo đều toát hết mồ hôi lạnh. Tôi gắng dồn sự chú ý vào việc nhồi thuốc,cố
không nghĩ đến con gấu hung dữ đang tiến lại gần mình nữa. Sau việc nhồi thuốc
là công đoạn nạp đạn, phải dùng ống sắt nhồi thật chặt, tóc mai và lỗ mũi tôi ướt
sũng mồ hôi, loại súng săn này quả thật rắc rối, để vỡ nòng thì tôi cũng toi đời
luôn. Ở vùng rừng núi Đông Bắc này, đã có biết bao thợ săn vì không có nổi lấy
một khẩu súng bắn nhanh mà để mất sinh mạng quý báu, lúc này giá mà tôi có một
khẩu súng trường bán tự động kiểu 56, thì dẫu dăm ba con nữa đến đây cũng chấp
hết, bằng không thì súng lục cũng vẫn được. Ngay sau khi tôi nạp đạn và thay
xong mồi lửa, móng vuốt sắc nhọn của con ác thú cũng đã vập sát chân, tôi vội
co chân lại, thuận thế xoay nòng súng chĩa xuống dưới, nhằm đúng đầu con gấu mà
bóp cò. Lần này vì cho quá nhiều thuốc súng nên khói bay mịt mù, làm mặt tôi
đen kịt. Đạn được nén trong lòng súng rồi bắn ra nhờ sức thuốc nổ, nhưng vì góc
độ quá thấp nên bị lỏng, không thể nào phát huy được hết uy lực vốn có của
súng, vả lại do tôi bắn súng một tay, phía sau không có điểm tựa, nên cự ly gần
thế mà cuối cùng vẫn bị lệch, không bắn trúng đầu mà chỉ làm con gấu tét một
bên vai. Con gấu người gã tự độ cao mười mấy mét xuống đất đánh rầm một cái,
bên dưới toàn là lá khô cành mủn dày đến mấy tấc,cộng với con gấu cũng thuộc loại
da dày thịt chắc, nên rơi từ trên cao xuống vẫn không mảy may gì. Con gấu lại
bò dậy, lần này nó không trèo lên nữa, mà rú lên ầm ĩ huých mạnh tảng người vâm
chắc vào thân cây như một cỗ xe tăng hạng nặng, làm lá thông quả thông rơi xuống
lả tả như mưa. Cũng may tôi gài cánh tay vào sợi dây lưng treo trên cành nên
không đến nỗi bị rơi xuống dưới, chỉ hơi lo cái cây không đủ to chắc, bị con gấu
huých thêm vài phát nữa không chừng cũng bật rễ luôn, thật không ngờ hôm nay lại
phải chết trong chốn rừng thiêng nước độc này. Phút lâm chung cũng không được mất
thể diện, chí ít phải lấy lại chút chí khí lẫm liệt của người chiến sĩ cách mạng
vì đại nghĩa quên mình, phải khiến cho Tuyền béo và Yến Tử thấy rằng họ Hồ ta
đây không phải là hạng tầm thường. Nghĩ đoạn tôi liền cao giọng gọi Yến Tử và
Tuyền béo: “Xem chừng tớ phải đi gặp ông Các Mác rồi, xin lỗi các đồng đội, tớ
đi trước một bước đây, tớ đến đó sẽ giữ chỗ cho, hai người có lời nào muốn nhắn
gửi tới những người thầy của chủ nghĩa cách mạng của chúng ta không, tớ sẽ chuyển
giúp!” Tuyền béo nằm trên một cái cây cách tôi mười mấy mét, nói vọng lại: “Đồng
chí Hồ Bát Nhất! Cậu cứ yên tâm lên đường,. sự nghiệp cách mạng có cậu cũng
không tốt lên, thiếu cậu cũng chẳng xấu đi, cậu cứ đến chỗ lão Mác học lý luận
cách mạng cho tốt đi, nghe nói họ ăn toàn thịt bò sốt khoai tây đấy,có quen được
không?" Tôi đáp lời: “Người làm cách mạng có bao giờ kén cá chọn canh? Này
đồng chí Béo! Cỗ xe cách mạng còn chưa đổ thì các cậu vẫn phải tiếp tục đẩy về
phía trước đấy nhé! Cờ đỏ tung bay dân cầm mác, tước quyền bá chủ quân gian ác,
hai phần ba dân nghèo trong thiên hạ đang chờ các cậu đi giải phóng đấy, tớ đi
ăn thịt bò sốt khoai tây đây!” Yến Tử khóc oà lên: “Giờ là lúc nào rồi mà các
anh vẫn còn đùa được chứ? Mau nghĩ cách gì đi!” Đúng lúc chúng tôi bó tay hết
cách, con gấu bỗng dưng không huých cây nữa mà dừng lại, ngồi bệt xuống đất thở
phì phò. Hoá ra do chảy quá nhiều máu, lại không ngừng lồng lộn, nên tuy có sức
mạnh ghê người, con gấu cũng đến lúc cùng kiệt, cơn điên cũng xẹp đi không ít,
nó ngồi dưới gốc cây, giở kế “rỗi chơi đợi nhọc”, chờ cho chúng tôi mệt lả mới
tiếp tục ra tay. Dẻ Vàng cũng biết con gấu ghê gớm, nên không dám bén mảng tới
gần, chỉ ngồi chồm chỗm ở một chỗ thật xa, nó hẳn cũng rất đói, nhưng bởi tuyệt
đối trung thành với chủ nên quyết không bỉ đi kiếm ăn một mình. Yến Tử xót chó,
huýt một hồi sáo ra lệnh cho Dẻ Vàng tự đi kiếm ăn, nó mới lầm lũi bỏ đi. Ba
người chúng tôi nằm trên cành cây cùng bàn bạc đối phó, nhưng nghĩ đi nghĩ lại
thực sự chẳng còn cách nào nữa cả, giờ mà xuống dưới liều mình, với mấy khẩu
súng kiểu cổ lỗ sĩ này khác nào tự tìm cái chết, người trong làng đều đã đi cả,
nên chờ người đến cứu là điều không thể. Để khỏi rơi xuống đất, mỗi người đành
phải lấy thắt lưng trói chặt thân mình vào cành cây, rồi chờ xem ai lỳ hơn ai.
Vậy là bế tắc,tình thế giằng co thế này rất bất lợi đối với ba người chúng tôi,
một phen sống mái kinh hồn bạt vía với con gấu vừa rồi cũng đã khiến sức lực
chúng tôi gần như cạn kiệt, trời cũng sắp tối, cả ba hơn hai ngày một đêm đều
không được chợp mắt, ban sáng cũng chỉ ăn có mấy miếng bánh lót dạ, giờ vừa đói
vừa buồn ngủ, chỉ e chưa đến sáng sớm đã lả đi mà rớt xuống mất. Tình cảnh này
khiến tôi nhớ đến một câu thơ của Mao chủ tịch: “Địch kia vây bủa trùng trùng,
ta đây đứng vững không lung không sờn”. Có điều trong núi chẳng hề có cờ lọng
phấp phới, chỉ có mỗi con gấu người đang chồm hỗm chờ sẵn. Đang nghĩ ngợi vẩn
vơ, bất giác cơn buồn ngủ thiu thiu ập đến, tôi nằm úp trên cây rồi thiếp đi.
Cũng chẳng biết ngủ được bao lâu, đến khi có cảm giác đói meo khó chịu, mình mẩy
đau nhức, tôi mới tỉnh giấc, chỉ thấy trên trời sao giăng chi chít, trăng tựa
móc câu, đêm chừng đã khuya. Khắp khu rừng yên lặng như tờ, tôi mượn ánh trăng
quan sát, con gấu đã không còn dưới gốc cây nữa, nó bỏ đi từ lúc nào cũng chẳng
ai hay. Cây cối rậm rạp qúa, tôi nhìn không rõ Yến Tử và Tuyền béo còn ở trên
cây không, liền cất giọng gọi vang: “Yến Tử, Béo ơi! Hai người còn ở trên cây
không?” Tôi gọi liên tục mấy lượt tiếng gọi vọng vang khắp núi rừng, nhưng mãi
chẳng thấy người nào trả lời. Tôi tuy cũng bạo gan, nhưng thoáng nghĩ chỉ còn một
mình lạc lõng trong rừng sâu thì không khỏi dựng tóc gáy, thầm nhủ hai tên kia
thật chẳng ra gì, quên mất cả tôi, lúc đi cũng chẳng thèm gọi lấy một tiếng.
Tôi lại cố gọi thêm hai tiếng, vẫn không thấy động tĩnh gì, liền lo lắng ngoảnh
nhìn tứ phía, phát hiện ra phía trước không xa có ánh đèn lấp loá, không ngờ
nơi đây lại vẫn có người cư trú. Hai đứa kia hẳn cũng thấy ánh đèn nên đã chạy
đến đó tìm người rồi? Đêm tối như mực chẳng thể phân biệt được đâu là Đông Tây
Nam Bắc, chỉ nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, tôi đành ngẩng đầu tìm sao Bắc Đẩu,
ánh đèn có lẽ hắt ra từ phía núi Tim Trâu, tôi tuột xuống, khập khiễng đi về
phía đó. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra chủ nhân của ánh đèn ấy là một ông thợ săn
già có chòm râu bạc trắng, rất đỗi hiền từ lại nhiệt tình và mến khách, gặp
thanh niên trí thức bị lạc trong rừng như tôi đây, ông nhất định sẽ nhiệt tình
khoản đãi, mời uống trà nóng, rồi nướng đùi hươu cho ăn....càng nghĩ, bụng tôi
càng đói cồn cào, phải lấy tay áo lau nước miếng đầm đìa nơi khoé miệng. Tôi vừa
đi vừa nghĩ đến bữa ăn, phút chốc đã tới trước một cửa hang khổng lồ, trong
hang sâu ánh đèn rực rỡ, nhưng cũng thật lạ, vừa nãy còn thấy ánh đèn không xa
sao bây giờ lại ở sâu tít trong hang núi, lẽ nào tại tôi đói đâm hoa mắt chăng?
Tôi bị chiếc đùi hươu thơm phức trong tưởng tượng dẫn dụ bước vào trong hang động,
rảo chân tiến vào tận cùng cái hang vừa sâu vừa tối mò ấy, chợt phát hiện ra
không gian trong lòng núi rộng lớn vô cùng, cảnh vật trước mắt bỗng sáng bừng
choáng ngợp. Bỗng thấy phía trước có năm sáu cô gái trẻ măng cười cười nói nói
sánh vai bước đi, giờ rõ ràng đang là mùa hạ, nhưng bọn họ lại toàn mặc áo da cừu
lộng lẫy, kiểu dáng cổ điển, không giống kiểu cách ăn mặc thời nay, duy chỉ có
một người trong số đó mặc áo kaki màu lam đúng mùa, tóc tết hai bím, trên vai
khoác chéo một túi vải xanh bộ đội in chữ “Vì dân phục vụ”, ơ, chẳng phải chính
là Điền Hiểu Manh đó sao? Đúng rồi, chính xác là Điền Hiểu Manh,cô này là thanh
niên trí thức đến từ Tô Châu, còn tôi với Tuyền béo đều là dân Phúc kiến, tuy
cùng là dân Miền Nam, nhưng thực ra cũng chẳng thân nhau mấy. Cái chính là vì
tôi với Tuyền béo nghịch quá, lại toàn gây hoạ, thường thì đám con gái hiền
lành chân chất chẳng có đứa nào dám gần bọn tôi cả. Nhưng gặp được người quen ở
cái hang động kỳ quái này, ít nhiều cũng cảm thấy vững dạ. Tôi vội chạy lên, gọi
: “Tiểu Điền! Sao lại ở đây? Có gì ăn được không?”. Hiểu Manh ngoảnh lại thấy
tôi, liền vẫy tay gọi, tỏ ý bảo tôi đến gần hơn nữa. Tôi bước lại nói với cô:
“Cậu ở đây vui chơi sướng nhỉ, bọn tôi vì cậu mà suýt nữa làm mồi cho gấu đấy.
Mà đây là đâu vậy? Cậu có gì ăn không? Tôi đói móp cả bụng rồi đây này.” Hiểu
Manh đáp: “Thật xin lỗi các cậu, đều tại mình không tốt, mình vào khe Lạt Ma
hái thuốc nhưng lại bị lạc đường, may gặp mấy chị tốt bụng đây giúp, lát nữa bọn
họ còn diễn kịch bóng da nữa đấy, cậu đến đúng lúc lắm, mình ở lại cùng xem một
lát hẵng về.” Nói đoạn liền giới thiệu với tôi mấy cô gái trẻ bên cạnh, những
cô này đều nói giọng địa phương, ai nấy đều hết sức nhã nhặn, còn mời tôi ăn thịt
hươu khô, rủ tôi cùng vào xem kịch nữa. Tôi theo mấy cô gái đi vào bên trong,
chỉ thấy ngay giữa hang động rộng lớn là một toà thành lầu gon gác tía, đèn đuốc
sáng chưng, khắp nơi đồ cổ, châu báu chất cao như núi. Trước cổng thành chăng một
tấm vải trắng lớn, phía sau là mười mấy vị nhạc sư khua chiêng gõ trống, phía
trước đặt một chiếc bàn dài kiểu cổ, trên bàn là ấm nước chén trà, thứ nào thứ
nấy đều rất tinh xảo, ngoài ra còn một chiếc mâm mã não màu đỏ đựng đầy hoa quả
và các món điểm tâm nữa. Trước bàn có đặt ba chiếc ghế, mấy cô gái mặc áo lông
vừa nãy lần lượt mời tôi và Hiểu Manh ngồi vào hai ghế trái phải, còn ghế giữa
để trống, dường như còn đợi môt nhân vật quan trọng khác nữa đến. Điền Hiểu
Manh thấy chỉ có ba ghế, những người còn lại đều đứng hết ở phía sau, cảm thấy
có chút không phải, cứ lần lữa từ chối. Tôi thì vừa mệt vừa đói, cũng chẳng muốn
khách sáo làm gì, dù sao sông núi của dân dân làm chủ, đã có chỗ ngồi như vậy,
ai ngồi mà chẳng như nhau, vậy là tôi cứ nghênh ngang ngồi xuống, bốc lấy thức
ăn trước mặt xơi luôn. Nhưng chắc vì đói quá, nên đồ ăn làm rất kỳ công, mà tôi
lại thấy thếch chẳng mùi chẳng vị, cứ như nhai phải sáp nến, ăn được mấy miếng,
càng nghĩ càng thấy quái lạ. Lúc bấy giờ có hai cô thiếu nữ dìu một bà cụ lọm
khọm tóc trắng như cước toát lên vẻ cao sang quý phái từ trong cửa lớn bước ra,
tiến lại ghế giữa. Tôi và Điền Hiểu Manh đều đứng dậy cúi chào chủ nhân, nom bộ
dạng bà ta, tôi càng thấy quái dị, giờ thời đại nào rồi mà vẫn còn loại quý bà
như vầy chứ? Bà già gật đầu chào lại chúng tôi, rồi ngồi xuống ghế, chẳng nói
chẳng rằng chăm chú đợi xem kịch. Cô gái trẻ đứng chầu bên cạnh vỗ tay một cái,
các nghệ nhân, nhạc sư của gánh hát nghe thấy hiệu lệnh liền ra sức biểu diễn.
Kịch bóng da khơi nguồn từ thời Hán Đường, còn có tên “kịch bóng đèn”, là một
loại nghệ thuật diễn xúât rất được dân chúng yêu chuộng, người ta dùng da lừa
hoặc bìa giấy cắt thành các nhân vật, động vật trong truyện, các nghệ nhân sẽ vừa
điều khiển, vừa diễn xướng và khua chiêng gõ trống phía sau màn trắng, đến ngày
nay, đã có tới hàng trăm tiết mục khác nhau. Có điều trong thời kỳ Cách mạng
Văn hoá loại hình nghệ thuật này cũng không tránh khỏi oan khiên, người ta phê
phán thứ kịch này toàn tuyên truyền tán tụng vớ vẩn về những tài tử giai nhân,
đế vương khanh tướng, là thứ cỏ rác độc hại, nên nào còn ai dám diễn nữa. Tôi
có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng mình lại được xem thứ này ở đây, trong cái thời
buổi đời sống văn hoá là con số không này, thì kịch rối quả thực là hấp dẫn,
tôi cứ mải xem kịch mà quên bẵng đi mọi việc khác. Các tiết mục đều vô cùng đặc
sắc, đầu tiên là vở “Thái tông mộng du cung Quảng Hàn”, rồi đến “Địch Thanh đêm
chiếm ải Côn Luân”. Trên màn ánh dao bóng kiếm, binh tướng tới lui, sắc màu sặc
sỡ, lại cộng thêm tiếng trống kèn cổ động, khiến người xem vỗ tay không ngớt.
Tôi xem đến nỗi đầu óc quay cuồng, mồm miệng khô khốc, bèn với tay vớ chén trà
trên bàn uống lấy một ngụm, bất chợt liếc nhìn bà già ngồi bên,chỉ thấy bà ta
cũng đang cười híp cả mắt lại, vừa xem vừa lấy đồ ăn trên bàn bỏ vào mồm, chỉ
có điều bộ dạng nhai thức ăn của bà ta quá ư cổ quái, hai má cứ phồng lên như
con vượn già, rệu rạo từng miếng từng miếng một. Bà nội tôi về già cũng không
còn răng, nhưng chẳng bao giờ bà ăn kiểu như vậy, bà già này là người hay là khỉ
đây? Trong lúc hoang mang, tách trà trong tay tôi bỗng dưng rơi xuống đất vỡ
tan tành, cái tách rơi vỡ cũng chẳng có gì ghê gớm, kinh hơn nữa là cái đầu của
bà già cũng rơi ngay xuống theo, hai con mắt vẫn nhìn chăm chăm lên sân khấu,
miệng vẫn nhai tóp tép không thôi. Mấy cô thị nữ vội vã chạy lại cung kính bưng
chiếc đầu lên, lắp lại lên mình bà ta. Tôi vô cùng sợ hãi, vội kéo Điền Hiểu
Manh chạy ra ngoài cửa động, lọ mọ trong bóng đêm tối mịt, chúng tôi lảo đảo
lao ra cửa hang, bên tai ầm ầm những tiếng long trời lở đất, dưới chân rung
chuyển dữ dội, hang động đằng sau đã khép lại thành một bức tường đá khổng lồ,
chỉ muộn độ nửa phút, hai chúng tôi chắc hẳn đã bị kẹp chết trong vách núi ấy rồi.
Bên ngoài sắc trời đã sáng, tôi dắt Điền Hiểu Manh chạy tới bờ suối ở chân núi,
thì bỗng nhiên bụng đau quặn lên, mồ hôi vã ra đầy trán, phải ngồi xuống ôm bụng.
Tôi nhớ nội tôi từng kể rằng bọn ma quỷ thường biến đá, sỏi, giun, cóc thành
sơn hào hải vị rồi lừa người ta ăn, không biết vừa nãy tôi ăn phải cái quái quỷ
gì, càng nghĩ lại càng muốn oẹ cuối cùng không nhịn nổi nữa liền nôn thốc nôn
tháo. Trong cơn vật vã, tôi vẫn thấy thấp thoáng có hai người từ xa bước lại,
người con gái đi phía trước trông hơi quen, thì ra là Yến Tử, thấy cô đến tôi mới
thực sự yên tâm, trước mắt tôi tối sầm lại, cứ thế lịm đi. Tôi tỉnh dậy thì đã
là chuyện của ba ngày sau rồi, hôm ấy Yến Tử và Tuyền béo vẫn nằm trên cây đợi
đến khi trời sáng, còn con gấu người dưới gốc cây vì mất quá nhiều máu nên cũng
đã chết. Có điều tìm khắp nơi mà cũng không thấy tung tích của tôi, cuối cùng
không ngờ lại gặp tôi và Điền Hiểu Manh bên bờ suối. Ba ngày nay tôi vẫn hôn mê
bất tỉnh, sốt cao hơn bốn mươi độ, Tuyền béo phải chạy cả trăm dặm đường núi mới
mời được bác sĩ trên huyện khám cho. Cũng may tôi có sức khoẻ tốt nên cuối cùng
cũng tỉnh lại được, nhưng Điền Hiểu Manh từ đầu chí cuối vẫn ngây ngô vô thức,
đành thông báo cho gia đình cô đưa về điêù trị, về sau thế nào, thì chúng tôi
chẳng ai biết rõ. Tôi kể lại mọi chuyện cho bố Yên Tử, ông bảo vùng này có một
truyền thuyết, kể rằng sau khi bà Thái Hậu chết đi đã chôn sống theo rất nhiều
nghệ nhân và gánh hát dân gian,ngày xưa cũng có một số người đến núi Tim Trâu
và gặp những việc tương tự như chúng tôi đã gặp. Song trong ký ức của tôi những
việc vừa rồi đều rất mơ hồ,có lúc bản thân tôi cũng chẳng dám chắc việc ấy có
thực sự có xảy ra không nữa. Tôi chỉ làm thanh niên trí thức có hơn nửa năm,
nhưng những kỷ niệm còn đó thì suốt đời sẽ không bao giờ phai nhạt, mùa xuân
năm 1969 đến lượt tôi về nhà thăm gia đình, cuộc đời tôi bắt đầu thay đổi từ
đó.