Tải goPet 119 về máy : Tại đây
Quyển 1: Thành Cổ Tinh Tuyệt
Chương 4: Dòng Côn Luân không băng
Mùa xuân năm ấy, các
nhà lãnh đạo Trung Quốc chấp nhận sự uy hiếp nghiêm trọng đến từ các thế lực
thù địch quốc tế, liền không ngừng tiến hành điều chỉnh lại toàn bộ chiến lực
quân sự như mở rộng quân đội, chuẩn bị tác chiến, đào hầm, trữ lương, đồng thời
huy động nhân dân tích cực tham gia các cuộc diễn tập phòng không, chống chiến
tranh hạt nhân, và chiến tranh hoá học. Đợt về thăm nhà, có người báo cho tôi một
tin nội bộ, rằng vấn đề của gia đình tôi sẽ nhanh chóng được các ban ngành cấp
trên làm sáng tỏ, chứng minh ông nội tôi không phải địa chủ mà chỉ là thành phần
trung nông, như vậy việc thả bố mẹ tôi xem ra chỉ là chuyện một sớm một chiều.
Lúc bấy giờ quân Giải phóng đang trưng binh ồ ạt, một ông bạn chiến đấu cũ của
bố cho tôi nhập ngũ theo kiểu “lính chạy cửa sau”. Chú Trần, đồng đội cũ của bố
tôi, là tham mưu trưởng của một phân khu quân đội. Năm xưa binh đoàn số 9 tham
chiến ở Triều Tiên, cao nguyên Cái Mã băng tuyết phủ dày, mười mấy vạn quân
tình nguyện bao vây sư đoàn hải quân lục chiến số một tinh nhuệ nhất quân đội Mỹ.
Không quân Mỹ thả xuống chiến trường một lượng lớn bom lân tinh, bom na pan, biến
bầu trời đêm thành sáng rực như ban ngày. Bất chấp tấm bình phong hoả lực xây bởi
làn mưa bom bão đạn của quân đội Mỹ, quân tình nguyện vẫn phát động những đợt tấn
công như vũ bão, hết trận này đến trận khác. Trong cuộc chiến khốc liệt ấy, bố
tôi chẳng quản cái lạnh hơn âm hai mươi độ, lao vào đống binh sĩ thiệt mạng
cõng chú Trần đang bị thương nặng chạy ra, đến khi tới trung tâm cứu hộ, cơ thể
của hai người đã bị dính chặt bởi máu và nước đông cứng, y tá phải dùng kéo cắt
vào da thịt hai người mới tách họ ra được. Tình nghĩa của hai người họ chẳng thể
chỉ dùng bốn chữ anh em sinh tử mà so sánh được, vả lại vấn đề của bố mẹ tôi
cũng sắp được giải quyết ổn thoả, nên giờ có sắp xếp cho tôi vào quân ngũ đối với
tham mưu trưởng của một phân khu kể ra cũng chẳng khó gì. Chú Trần hỏi tôi muốn
làm lính gì, tôi bảo muốn làm không quân, nghe nói phi công có chế độ ăn uống tốt.
Chú cười gõ vào đầu tôi: “Lái máy bay đâu có dễ thế! Mày vào đội quân dã chiến
cho chú, rèn luyện tử tế vài năm, rồi chú điều mày vào làm trong cơ quan phân
khu.” Tôi nghe thấy phải làm việc trong cơ quan thì bảo thôi, thà cứ ở bộ đội
cơ sở còn hơn, chứ ngồi trong văn phòng tôi chẳng quen được. Tôi cứ định quay lại
trại Cương Cương chào tạm biệt Tuyền béo với Yến Tử, nhưng vì thời gian không
cho phép, đành phải viết cho hai người họ bức thư vậy, trong lòng vẫn cảm thấy
áy náy không yên, mình thì nhập ngũ làm bộ đội, bỏ mặc bạn tốt lao động nơi núi
rừng hẻo lánh, nói thế nào thì cũng vẫn có cảm giác không thể cùng chung hoạn nạn
với bạn bè. Có điều cảm giác ấy chỉ ba tháng sau là bay biến, khi ấy tôi mới biết
quãng thời gian làm thanh niên trí thức ở Nội Mông mới dễ chịu biết bao! Tôi được
ban trưng binh biên vào một sư đoàn đang sắp chuyển thành bộ đội thiết giáp, chẳng
ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, vừa mới tới trại huấn luyện tân binh chịu khổ được
ba tháng, Quân uỷ Trung ương lại hạ lệnh điều đơn vị chúng tôi tới binh trạm đạo
62 ở dãy Côn Luân trên cao nguyên Thanh Tạng, cả sư đoàn đều đổi thành bộ đội
công trình. Thực ra việc này cũng không có gì lạ, tình hình lúc bấy giờ, bộ đội
cả nước đều phải đào hầm, xây dựng những kiến trúc phòng kháng hạ tầng như hầm
phòng không, hầm chứa đạn dược, hầm che chiến lược, vân vân, toàn quân hầu như
không có người lính nào không đào hầm cả, chỉ khác ở chỗ: đơn vị của tôi sẽ
chuyển từ đào hầm nghiệp dư thành đào hầm chuyên nghiệp. Nhiệm vụ của chúng tôi
thuộc loại cơ mật cấp I, xây dựng một căn cứ khổng lồ ở tận sâu trong lòng núi
Côn Luân, tuy không ai thông báo rõ cho các chiến sĩ về mục đích sử dụng của
căn cứ này, nhưng những người có đầu óc một chút chắc đều có thể đoán ra được cả.
Trong quân đội có những điều lệ bảo mật, nên mọi người ngày thường không bao giờ
đả động đến chuyện này. Cũng có lời đồn rằng hoàn thành nhiệm vụ này xong,
chúng tôi sẽ lại được biên trở về làm quân dã chiến. Núi Côn Luân hay còn gọi
là Côn Luân Ô Khẩu, cao 4767 mét so với mực nước biển, theo cách nói của địa chất
học thì núi này thuộc loại “địa mao hoang mạc băng tích nhiều năm”, tạo nên bởi
các lớp nham tầng chuyển hoá từ những hợp chất phân huỷ từ thời cổ đại. Sư đoàn
chúng tôi từ trên xuống dưới, ngoài biết đào chiến hào ra, thì chẳng có kiến thức
gì về việc thi công các công trình xây dựng, vậy nên quân đội đã đặc phái rất
nhiều kỹ sư, kỹ thuật viên đến làm công tác chỉ đạo hướng dẫn, đồng thời tiến
hành bồi dưỡng cấp tốc cho các cán bộ chỉ huy và chiến sĩ trong vòng năm tháng.
Phân đội của tôi được giao phó phái một tiểu đội đi tiên phong xuống phía Nam,
vượt qua “Bất Đông Tuyền” ( suối không đóng băng) rồi tiến vào tận trong dãy
núi Côn Luân rộng lớn, nhiệm vụ của chúng tôi là phải đi tìm địa điểm ẩn mật
thích hợp cho việc xây dựng công trình. “Bất Đông Tuyền” nằm ở bờ phía Bắc Sông
Côn Luân, còn gọi là suối Côn Luân, những tấm đá hoa cương quây thành vách, nước
suối trong vắt không ngừng tuôn trào hàng vạn năm nay, dù là mùa đông băng giá
vẫn không hề đóng băng, cũng không ai biết suối này bắt nguồn từ đâu cả. Cấp
trên có lệnh cấm không cho binh lính được tắm rửa ở đây, bởi dân Tạng bản địa
coi con suối này là suối thần, thường xuyên bái lạy. Hồi trước khi Tây Tạng vừa
giải phóng, đại quân từng đi ngang qua đây, khi ấy vẫn chưa có quy định gì hết,
có ba chiến sĩ tự xuống suối tắm, nhưng đều chết đuối cả, nguyên nhân cái chết
nghe nói là do trong nước có lượng diêm tiêu và lưu huỳnh rất lớn, mộ của ba
chiến sĩ ấy ở binh trạm cách đây không xa, trạm tiếp tế cuối cùng của chúng tôi
cũng được đặt ở chỗ ấy. Cuối cùng chúng tôi cũng tiến vào dãy Côn Luân, dường
như mọi người đều xuất hiện phản ứng cao nguyên nghiêm trọng. Mặt người nào người
nấy đều tím bầm lại, mắt mũi tối sầm, đầu óc dường như sản sinh ảo giác. Dãy
Côn Luân sừng sững muôn núi ngàn khe, tựa những con rồng khổng lồ xám bạc đang
cuồn cuộn phóng mình về phía trước, tiểu đội chục người của chúng tôi trông chẳng
khác gì một mống kiến nhỏ xíu lạc lõng giữa mạch núi hùng vĩ vô biên này. Trên
đường hành quân, tôi chợt nhớ tới cuốn sách cũ ông nội để lại, trong sách có
ghi năm ngàn ngọn núi ở Côn Luân là long mạch tổ của toàn thiên hạ, những mạch
núi này từ thời thái cổ đến nay đã vùi náu vô số bí mật bên trong,tương truyền
lăng tháp của vị vua anh hùng Kasar và cánh cửa lớn thông với Ma quốc trong thần
thoại Tây Tạng đều ở cả trong dãy núi hùng vĩ này. Nhiệm vụ của đội tiên phong
là phải tìm được địa điểm thi công thích hợp, ngoài đám lính chúng tôi còn có
hai kiến trúc sư, một kỹ sư đo vẽ và một kỹ sư thăm dò địa chất, sau khi để xe
lại, chúng tôi đi bộ trong núi đã được chẵn hai ngày, buổi chiều hôm thứ hai
khi mọi người dựng lều lán nghỉ ngơi, bầu trời dày đặc những áng mây chì, thi
thoảng lại có vài bông hoa tuyết lất phất, xem chừng đến tối thế nào cũng đổ một
trận tuyết lớn. Bốn kỹ sư đều là loại trí thức đeo kính, còn có một người là nữ
nữa, họ không thích ứng được với môi trường khắc nghiệt trên cao nguyên, vừa đặt
lưng xuống lều đã thở hổn hà hổn hển, nghe tiếng thở ấy mọi người đều lấy làm
lo lắng thay cho thân thể còm cõi của họ. Chính trị viên dẫn đội, tiểu đội trưởng
và nhân viên y tế vội pha thuốc hạ sốt cho họ uống, khuyên họ nên ăn một chút,
vì càng không ăn sẽ càng thấy thiếu ô xy. Anh em lính tráng đều thân thể cường
tráng, khi nhập ngũ đều phải rèn luyện mỗi ngày chạy việt dã năm cây số ở trường
huấn luyện tân binh, nên khả năng thích ứng với môi trường rất mạnh, lúc này về
cơ bản ai nấy đều đã dần thích ứng với môi trường thiếu dưỡng khí nảy rồi. Mọi
người dùng antraxit đặc chế đốt lửa trại, ngồi quây quanh đống lửa sưởi ấm, sau
đó ăn mì nửa sống nửa chín với lương khô, vùng này quá cao, nước đun không thể
sôi, nên mì cũng chỉ có thể nấu chín được một nửa. Mấy chiến hữu tôi chơi tương
đối thân có “anh Đô” người vùng Đông Bắc Hắc Long Giang, Cả Oa người Tây Tạng
và cậu giao liên Tiểu Lâm người Cát Lâm mới mười sáu tuổi. Mấy người chúng tôi
sùm sụp vài ba miếng là hết tô mì, sau đó khề khà mấy hơi rồi đi nghỉ, cảm giác
ăn một bữa trên cao nguyên còn tốn sức hơn hành quân việt dã dưới đồng bằng nhiều.
Tiểu Lâm nghĩ một lúc rồi bảo tôi: “Anh Nhất! Anh nhập ngũ ở thành phố, hiểu rộng
biết nhiều, anh kể chuyện gì cho bọn tui nghe đi chớ!” anh Đô cũng hùa theo:
“Trời ơi, tui thấy thằng cha Nhất nó kín tiếng quá trời quá đất à, lát nữa còn
phải họp tiểu đội, đằng nào cũng không được nghỉ sớm, thôi cứ kể chuyện cho anh
em nghe đi mừ!”. Cả Oa nói tiếng phổ thông không được sõi, nhưng nghe hiểu được,
cậu ta cũng muốn nói gì đí, mấp máy một hồi rồi cứ ngây ra chẳng nhớ định nói
gì, đành chỉ thẳng vào tôi rồi trỏ trỏ, tôi đoán anh chàng đại khái bảo tôi kể
đi, cậu ta cũng muốn nghe. Tôi bèn le lưỡi đáp: “Không khí loãng thế này mà mọi
người vẫn có hứng được cơ à? Được rồi, các đồng chí đã muốn nghe, thì tôi đành
tán gẫu một đoạn vậy, lát nữa họp mà tiểu đội trưởng gây khó dễ cho tôi thì mọi
người phải nói đỡ cho đấy nhé!”. Tại sao tôi lại nói vậy, bởi vì tay tiểu đội
trưởng này thường ngày cứ ngứa mắt với tôi, hắn nhập ngũ dưới quê, phục dịch
như nàng dâu hầu nhà chồng trong quân đội năm năm mới lên được chức tiểu đội
trưởng tép riu, nên đặc biệt khó chịu với loại “lính chạy cửa sau” con em cán bộ
cấp cao như tôi. Mỗi lần họp tiểu đội là hắn bắt tôi phát biểu đầu tiên, rồi cứ
nhắm những chỗ sơ hở của tôi để phê bình chỉ trích, chuyện này dường như đã
thành quy luật, làm tôi tức điên cả người lên, chẳng muốn nhắc lại nữa. Nhưng
giờ kể chuyện gì mới được nhỉ? Số sách tôi đã đọc cộng lại chưa đến mười cuốn,
trong đó Tuyển tập Mao chủ tịch bốn cuốn, Những lời bác Mao dạy một cuốn, tự điển
một cuốn, rồi Mặt trời đỏ cũng coi là một cuốn, Quân cận vệ thanh niên tính là
cuốn nữa. Nhưng mấy quyển đó tôi kể hết cả rồi, còn có cuốn Bí thuật phong thủy
nữa,có điều tôi nghĩ họ có nghe cũng chẳng hiểu. Tôi vắt óc nghĩ, cuối cùng
nghĩ ra một cuốn sách tôi mượn của Điền Hiểu Manh hồi còn đi tham gia lao động ở
Nội Mông, đó là một cuốn sổ chép tay ghi lại những truyền thuyết dân gian, nội
dung chủ yếu kể về tổ chức và hoạt động của Đảng Hoa Mai(1), ngoài ra còn có
không ít những câu chuyện kì quái hồi bấy giờ, trong đó câu chuyện Một trăm bộ
da mỹ nhân đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Câu chuyện xảy ra trên một chuyến
tàu từ Bắc Kinh về Nam Kinh, cô sinh viên Triệu Bình Bình bắt chuyến tàu này về
Nam Kinh thăm nhà, người khách ngồi đối diện với cô là một anh sĩ quan quân Giải
phóng khôi ngô tuấn tú, chẳng biết vô tình hay hữu ý, hai người bắt chuyện với
nhau. Triệu Bình Bình bị phong độ ngời ngời và cách nói chuyện hết sức có duyên
của chàng sĩ quan trẻ hút mất hồn, qua câu chuyện, cô biết hoàn cảnh gia đình
anh sĩ quan rất tốt, lại được học hành cẩn thận. Triệu Bình Bình thậm chí còn
mơ tưởng mình được gả cho đối phương nữa. Chẳng mấy chốc, đoàn tàu đã tới ga
Nam Kinh, anh sĩ quan mời Triệu Bình Bình tới quán ăn gần ga ngồi trò chuyện,
trong bữa ăn anh ta chạy đi gọi điện một lát,quay lại liền đưa cho cô một bức
thư nhờ gửi về nhà. Nghe anh ta nói có nhiệm vụ khẩn cấp phải gấp về đơn vị,
không thể về nhà luôn được, Triệu Bình Bình liền nhận lời ngay không chút do dự,
hai người quyến luyến nhau mãi rồi mới chia tay. Ngày hôm sau, Triệu Bình Bình
đưa thư tới nhà anh sĩ quan, đón tiếp cô là một bà già, bà mở thư ra đọc, rồi
nhiệt tình mời Bình vào nhà ngồi chơi uống nước. Triệu Bình Bình uống vài ngụm
trà, nói chuyện với bà già mấy câu, đột nhiên cảm thấy hoa mắt choáng váng, ngã
lăn ra đất. Một xô nước lạnh thấu xương dội thẳng vào người khiến Bình Bình bừng
tỉnh,cô phát hiện mình bị lột trần, trói trên một chiếc ghế băng, bốn bức tường
xung quanh treo đầy da người. Mấy người đang đứng vây xung quanh cô là mụ già
ban nãy và mấy tên đàn em vạm vỡ. Mụ lấy bức thư ra giơ trước mặt Triệu Bình
Bình cho cô xem, trong thư chỉ viết một câu duy nhất: “Đã đưa đến tấm da mỹ
nhân thứ một trăm, xin kiểm tra lại”. Mụ già cười lạnh lùng, nói: “Mày chết đến
nơi rồi, để tao nói cho mày được chết minh bạch, bọn tao là đội đặc vụ bí mật,
lột lấy da bọn con gái chúng mày là để nhét thuốc nổ vào, tất cả một trăm bộ da
người cuối cùng cũng đủ số rồi.” Nói đoạn liền rút ra một con dao nạo sáng
loáng đưa cho một tên đàn em, dao nạo là loại dao đặc chế, chuyên dùng để lột
da, gã to con kia đưa con dao cắt xuống đầu Triệu Bình Bình trong tiếng kêu gào
thảm thiết của cô… Tôi đang kể lên hứng, thì bị tiểu đội trưởng chạy lại ngắt lời:
“Đừng kể nửa! Đừng kể nửa! Hồ Bạt Nhật! Đồng chí bịa chuyện vợ vẩn gì thệ. Mọi
người họp giờ đây! Đồng chị thịch lặm mồm thì lạt tui cho đồng chí phạt biệu
trược, được phỏng!”. Tôi vội đứng nghiêm, bắt trước giọng nói của tiểu đội trưởng
trả lời: “Không được! Không được! Sao lại là tui nọi trược? Nếu có nọi, cũng phải
đến lượt tay Cạ Oa, mọi người đều bình đẳng mợi là nguyên tặc xả hội chủ nghỉa
chự!” Tiểu đội trưởng lại nói: “Đồng chí Nhật! Sao đồng chí lại nọi năng như vậy?
Tui đề nghị đồng chị không được bặt chược cạch tui nọi. Tui là tiểu đội trưởng,
tui bảo đồng chị phạt biểu đồng chị phải phạt biểu chự, không cọ chủ nghỉa bình
quân tuyệt đội gì hệt!” Tôi nhìn đám đồng đội ngồi quanh, ai cũng đều ra vẻ rất
nghiêm túc đợi nghe tôi phát biểu, Cả Oa nhân lúc tiểu đội trưởng không chú ý,
còn lè lưỡi trêu tôi nữa. Mấy ông tướng này thật chẳng trượng nghĩa gì cả. Giờ
chỉ còn cách tự cứu lấy mình mà thôi: “Báo cáo tiểu đội trưởng! Hôm nay chúng
ta thảo luận về vấn đề gì vậy? Đồng chí còn chưa nêu rõ, đồng chí bảo tôi phát
biểu thế nào?” Lúc bấy giờ, chính trị viên bước lại, chính trị viên Lý Kiện,
năm nay ngoài ba mươi tuổi, thân hình trung đẳng, con người nho nhã, cũng là một
người lính lão luyện nhiều năm, anh đối đãi với anh em binh lính rất tốt, không
làm bộ làm tịch bao giờ, anh nói với mọi người: “Các đồng chí đang họp à? Tôi đến
dự thính một lúc!”. Tiểu đội trưởng vội chạy đến chào chính trị viên, anh chỉ
huơ huơ tay tỏ ý mọi người cứ tiếp tục, đừng vì mình mà ảnh hưởng đến cuộc họp.
Trình độ của thằng cha tiểu đội trưởng này thực ra rất kém, thấy có chính trị
viên ngồi bên cạnh liền trở nên căng thẳng, chẳng biết phải nói gì, có lẽ hắn
nghĩ có lẽ hát một bài thì tương đối đơn giản, liền bảo với mọi người: “Cạc đồng
chí! Chụng ta cùng hạt một bài ca Cạch Mạng để cổ vủ ỵ chị nào! Cạc đồng chị thậy
cọ được không?” Đám chiến sĩ chúng tôi liền đồng thanh trả lời: “Được!”. Chính
trị viên ngồi bên cạnh suýt nữa sặc cười, vội giả vờ ho để che giấu. Tiểu đội
trưởng không thấy có gì buồn cười cả, nghiêm mặt giơ hai tay lên làm động tác
chỉ huy dàn nhạc: “Cạc đồng chị! Tui mào trược, nào…Nụi Nhị Lang…hai …ba!” “Núi
Nhị Lang à núi Nhị Lang, trập trùng muôn trượng vẫn ca vang. Ơi quân giải phóng
mình gang thép, xông pha khí thế rõ ngang tàng. Mặc gió táp tuyết giăng muôn lối,
xây đường lên Tây Tạng thênh thang!” Tuyết rơi ngày một lớn, tiếng đồng ca của
mười mấy chiến sĩ vang vọng trong những áng tuyết rãi đầy trời đất Côn Luân,
cũng chẳng biết là những bông tuyết ngập trời, những dãy núi bạt ngàn dội vang
tiếng quân ca hào sảng, hay là tiếng quân ca điểm xuyết cho vẻ thê lương tịch mịch
của dãy Côn Luân, nhất thời cả những kỹ sư công trình nằm trong lều trại cũng đều
bị lôi cuốn bởi tiếng hát vang trời này, họ quên hết cả phản ứng cao nguyên,
dõi mắt nhìn theo những dãy núi trải dài tít tắp trong tiếng quân ca, sóng lòng
dồn dập vỗ về… Chú thích: (1) Đảng Hoa Mai: một trong những đảng phái chống phá
Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong thời kỳ cách mạng Văn hóa. Cuốn sách tác giả kể
trên quả thực được phát tán và lưu truyền trong xã hội bấy giờ.